Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

Deleuze và Guattari – Khái Niệm Thân Rễ.

Phan Biên dịch từ:


DELEUZE VÀ GUATTARI - KHÁI NIỆM THÂN RỄ.

Khái niệm thân rễ được Deleuze và Guattari phát triển trong cuốn Một Nghìn Cao Nguyên hết sức thích hợp với một thảo luận về việc thay đổi hình thể của các yếu tố truyền thông; một sự đúc kết các hệ thống ngôn ngữ học. Các tác giả thuật lại định nghĩa này:

Chúng ta hãy tóm tắt các đặc tính chính của một thân rễ: không giống như các thân cây hay rễ của chúng, thân rễ kết nối bất cứ điểm này với bất cứ điểm kia, và những đặc điểm của nó không nhất thiết phải kết nối với những đặc điểm của cùng một bản chất; nó phát huy chính những chế độ khác nhau của các dấu hiệu, thậm chí các tình trạng phi dấu hiệu. Thân rễ không thể rút gọn về Đơn hay Đa. Nó không phải là Một trở thành Hai hoặc trực tiếp thành ba, tư, năm v.v. Nó không phải là Đa xuất phát từ Đơn, hoặc thêm vào từ đơn (n+1). Nó không bao gồm các đơn vị, mà là các chiều kích, hay đúng hơn là các hướng vận động. Nó không có khởi đầu và kết thúc mà luôn ở giữa, từ điểm giữa này nó phát triển và tràn ra khỏi điểm đó. Nó kiến tạo những đa cách tuyến với n chiều kích và không có chủ thể lẫn khách thể, có thể trải rộng trên một mặt phẳng nhất quán, và từ đó Đơn luôn bị trừ (n-1). Khi một đa cách loại này thay đổi chiều kích, nó tất yếu thay đổi về bản chất, và có thể trải qua sự biến dạng. Không giống như những cấu trúc được xác định bởi tập hợp các điểm và vị trí, thân rễ chỉ được tạo bằng những tuyến. Những tuyến phân khúc và phân tầng là những chiều kích của nó, thăng tuyến hoặc sự tháo dỡ là chiều kích cực đại mà sau nó tính đa cách trải qua sự biến dạng, thay đổi về bản chất. Không nên nhầm lẫn những tuyến hay dây chằng này với cây gia phả mà đơn thuần chỉ là dòng giống được định vị giữa các điểm và vị trí…Không giống như nghệ thuật đồ họa, vẽ hoặc nhiếp ảnh, không giống như đồ hình, thân rễ phù hợp với một tấm bản đồ mà nó phải được trình bày, xây dựng, một bản đồ luôn có thể tháo, nối, đảo ngược, sữa chữa, có nhiều lối vào ra cùng những thăng tuyến riêng (xem Deleuze va Guattari 1987, tr.21).

Thi Pháp Tái Tổ Hợp cố gắng thám sát ý niệm về thân rễ qua ràng buộc mang tính hoat động kĩ thuật với những yếu tố truyền thông, cũng như qua văn bản (như trang này). Cơ giới học kĩ-thi ca (techno-poetic mechanism) thể hiện nhiều tiêu chuẩn mà Deleuze và Guattari đã mô tả ở trên. Cơ giới học kĩ-thi ca cho phép kết nối “bất cứ điểm nào với bất cứ điểm khác” qua quá trình lèo lái và xây dựng. Nó cố gắng thám sát các “tình trạng của nghĩa” khi “nó phát huy chính những thể chế khác nhau của các dấu hiệu, thậm chí tính trạng phi dấu hiệu” qua môi trường hoạt động này. Bản chất không khép kín của hệ thống có nghĩa là nó không thể rút gọn thành “Đơn hay Đa”. Tầm quan trọng của nó không nằm trong các đơn vị riêng, mà đúng hơn, ở “những hướng vận động” và hình thể mà nó tạo nên những chuỗi lí giải nổi bật. Nó cố hữu trong một không gian nổi trội nhằm “thay đổi bản chất”. Nó là một cỗ máy với mục đích hợp nhất việc “tháo dỡ” thành quá trình trải nghiệm. Nó là “một bản đồ có thể tách, nối, đảo ngược, sữa chữa, có nhiều lối ra vào cùng những thăng tuyến riêng”. Đúng như Baudrillard tuyên bố trong cuốn Mô Phỏng và Giả Tạo, nó là “dự án điên của người lập bản đồ về một tỉ lệ lí tưởng tương đương giữa bản đồ và vùng lãnh thổ”, (Baudrillard, 1994, p.2) cùng mọi chú ý của tôi với tư cách một “người lập bản đồ” liên-môn học.

Ở đây chúng ta phải hỏi làm thế nào một trạng thái như thế lại khác với Thân Rễ của Deleuze và Guattari. Nếu chúng ta nói rằng một trạng thái như thế là một sự biểu thị - thì về bản chất, chúng ta đang tuyên bố rằng mọi trạng thái sinh ra qua việc kết hợp hình ảnh, âm thanh và văn bản đều là sự biểu thị, và đây không phải là trường hợp đang đề cập. Người sử dụng một hệ thống như thế vừa rút ra những nghĩa riêng dựa trên những kếp hợp thoáng qua, cũng như nghĩa tích lũy theo thời gian có liên quan đến những yếu tố cận kề ngẫu nhiên. Tôi gọi điều này là “các trạng thái nghĩa” vì những thời điểm mà những yếu tố truyền thông có thể đảm nhận việc kết hợp để tạo nghĩa, cho dù sự trừu tượng gợi ý về một ý nghĩa được cảm nhận (xem Gendlin về Ý Nghĩa Được Cảm Nhận). Vì thế, lưu thông qua lại từ biểu thị đến biểu thị, đến những tích lũy tạo tác của trí nhớ được lượm lặt trong suốt quá trình tham gia khắp phạm vi này. Điều gì không minh bạch nhất thời, có thể tạo ý nghĩa hoàn hảo sau đó – hoặc điều tầm phào hoàn hảo, ở nơi mà nó cũng được hiểu là thích đáng với việc xây dựng văn cảnh khi được thám sát theo một kiểu cách sắc sảo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét